-Em
sắp đồ lễ ra đi. Cứ sắp như mọi năm ấy em ạ.
Ngọc
nói với vợ rồi quay ra mở chiếc va-li kéo vẫn để bên mình. Thận trọng lấy ra một
tấm vải hoa, Ngọc lần lượt mở từng lớp gấp miếng vải. Tính ra, tấm vải ấy có tuổi
đời nhiều hơn tuổi của Ngọc. Màu sắc những hình in trên vải vẫn còn rõ nét,
nhưng những sợi vải đã dần xơ cứng. Dù được bảo quản cẩn thận, nhưng dấu tích
thời gian vẫn nhuốm vào tấm vải. Trước ngày bà Gái trao tấm vải cho Ngọc, chưa
bao giờ Ngọc biết đến sự tồn tại của nó. Cho mãi đến cái ngày Ngọc chuẩn bị đi
học lớp Mười ở thị xã…
Buổi
tối, vừa ăn cơm xong, bà Gái đã bảo con:
-Ngọc
à, tối nay con không đi chơi nữa nhé. Mẹ có việc này cần nói với con.
Đợi
Ngọc ngồi lại bên bàn uống nước, bà Gái mới loẹt quẹt đi vào buồng ngủ, rồi
quay ra với một gói đồ vuông vức trên tay. Bà Gái vừa đặt gói đồ xuống bàn, Ngọc
tròn mắt nhìn rồi hỏi ngay:
-Cái
gì đây hở mẹ?
-
Chỉ là tấm vải cũ thôi. Mẹ giữ nó mười mấy năm rồi, bây giờ mẹ muốn đưa nó cho
con. Con cứ mở ra mà xem.
Ngọc
thận trọng mở lớp giấy gói thô cứng. Một tấm vải gấp gọn gàng với màu sắc hầu
như tươi mới hiện ra trên tay Ngọc:
-Cái
này là…? -Ngọc
ngập ngừng ngẩng lên hỏi bà Gái
-Từ
từ rồi mẹ kể cho mà nghe.
Không
nhìn con, bà Gái nói vậy rồi nhấc chiếc ấm nhôm, tự rót cho mình một chén nước
đầy. Dường như bà đang khó khăn trong việc tìm ra những câu từ để mào đầu câu
chuyện mà bà đã gói ghém bấy lâu.
-Gia
cảnh nhà mình thì con biết rồi đấy…
Nhấp
một ngụm nước nhỏ, cuối cùng thì bà Gái cũng bắt đầu câu chuyện. Bên phía bàn đối
diện, cậu bé tuổi mười lăm chăm chú lắng nghe. Thỉnh thoảng Ngọc lại cấu tay
vào mép bàn, như để kìm giữ những cung bậc cảm xúc khác nhau qua từng lời mẹ kể.
-Năm
chị Lụa được năm tuổi thì bố con mất. Ông ấy bị cảm rồi đi, chứ chả bệnh tật gì.
Khi
nói về những người trong gia đình, bà Gái vẫn xác định vai vế từng người như thế, không phân biệt con nuôi hay con đẻ.
Lụa
là con gái duy nhất của vợ chồng bà Gái. Chồng mất, bà phải một mình xoay xở
nuôi con, nuôi thêm cả mẹ chồng. Khi Lụa được bảy tuổi, bà Gái tranh thủ đi
theo mấy người bạn buôn chuyến lên mạn ngược. Trừ tiền vốn bỏ ra, tiền cước vận
chuyển, tiền dấm dúi khi bị hạch sách…, lời lãi không nhiều nhưng cũng đủ nuôi
sống cả nhà.
-Ngày
ấy, chính sách có nhiều thứ cấm hãm việc buôn bán lắm – Không nhìn sang Ngọc,
bà Gái chép miệng tự ca cẩm. Rồi như để tự giải thích cho mình, và cũng để cho
con hiểu, bà Gái quay sang nhìn Ngọc, nở một nụ cười mệt nhọc:
-Mẹ
cứ đi nhiều rồi cũng quen, lại có thêm mấy bà bạn đi cùng nên cũng bớt buồn.
Chuyến
buôn cuối cùng trong đời bà Gái không có gì đặc biệt. Ngày ấy xe chạy liên tỉnh
cứ phải vài ba ngày mới có một chuyến. Cái việc phải chờ xe là bình thường lắm.
Trong thời gian phải chờ xe, bà Gái thường ngồi kiểm lại hàng họ, nợ nần. Dông
dài hơn, bà lân la đi ngó nghiêng tìm thêm mối hàng mới, đôi khi chỉ là đi cho
thư giãn đầu óc.
Buổi
sáng hôm ấy, bà Gái gọi xe ôm chở vào đền Duối. Nghe dân ở đây đồn rằng cái đền
ấy là thiêng lắm. “Thôi thì đất có thổ công, sông có hà bá. Có thờ có thiêng.
Mình đi lại đây nhiều, cũng nên vào dâng lễ rồi xin quẻ xem sao!”. Bà Gái tự
nghĩ thầm như thế.
-Anh
đợi tôi vào lễ thánh xong rồi lại chở tôi về chỗ cũ nhé. –Đến lối rẽ vào đền,
xem chừng xe không vào được nữa, bà Gái xuống xe rồi dặn anh chàng xe ôm.
Vào
đến cổng đền, bà thấy một đám đông xúm xít dưới tán cây duối cổ thụ. Lại gần,
bà mới biết là người ta nhặt được một đứa trẻ trai sơ sinh đặt dưới gốc duối. Một
ông, có lẽ là cán bộ xã, cất giọng oang oang:
-Nào,
mọi người giãn ra đi nào. Trước hết, xem có gia đình nào ở đây nhận nuôi đứa trẻ
này không? Nếu không, tôi đề nghị bác Lãng đưa đứa trẻ này về trạm xá xã. Tôi sẽ
lập biên bản, giao trạm xá chăm sóc, rồi báo cáo cấp trên.
Đám
đông dường như lập tức tản rộng ra. Bà
Gái lách vào ngó đứa trẻ do người đàn ông tên Lãng đang bồng trên tay. Đứa bé
kháu khỉnh, khôi ngô, chắc vừa mới đẻ, chưa được tắm rửa, tóc còn bết trên thóp
trán.
Sau
lời kêu gọi của ông cán bộ xã, cả đám đông không ai nói gì cả. Dường như họ
không sẵn sàng nuôi một hài nhi không do họ sinh ra, nhất là vào lúc này.
-Năm
ấy đói kém lắm, cơm đứt bữa là chuyện thường. Mà dân ở vùng ấy, nhà nào cũng
đông con rồi.- Bà Gái trầm ngâm quay sang nói với Ngọc, rồi hình dung lại tâm
trạng của bà ngày ấy.
Khi
bà Gái đưa tay kéo mép tấm vải để che khuôn mặt cho đứa trẻ, nó bỗng ngọ nguậy
đôi tay. Cái bàn tay nhỏ bé từ đống vải vô tình huơ lên quệt nhẹ vào tay bà.
Tim bà nhói lên nỗi xót xa như một bản
năng. Bà Gái lập cập đưa cả đôi tay xòe ngửa về phía ông Lãng, rồi nói với ông
ta:
-Bác
đưa em bế nó cho nào.
Cái
gói vải bọc đứa bé vừa chuyển sang tay, bà Gái đã ôm sát nó vào lòng. Nước mắt
bất chợt trào lên ầng ậng trên khóe mắt bà. Vẫn cúi xuống nhìn đăm đăm vào
khuôn mặt đứa trẻ, bà sụt sịt nói với những người xung quanh:
-Các
bác ơi, em sẽ nhận nuôi cháu bé…
-Cô này là người ở đâu vậy? – ông cán bộ xã cất
giọng hỏi.
-Em
ở dưới xuôi đi buôn bán lên đây. Gia cảnh nhà em mẹ góa con côi. Hôm nay định
vào lễ đền lại gặp cháu, có khi là duyên trời định…
Mọi
người lục tục kéo cả vào trong đền. Ông cán bộ xã kiểm tra giấy tờ của bà Gái rồi
lập biên bản giao nhận luôn dưới mái đền Duối. Cái bọc vải được mở ra. Ngoài
cái tã bằng vải xô màn lót bên trong, còn có bốn mươi đồng tiền giấy gấp thẳng
thớm giắt bên sườn đứa trẻ. Tấm vải bọc ngoài là loại vải “con công” còn mới.
Ông Lãng trải tấm vải ra đo chiều dài được gần hai mét. Tất tật những thứ ấy đều
được ông cán bộ xã ghi đủ vào biên bản. Tranh thủ lúc ông cán bộ xã hý hoáy viết
lách, bà Gái vào thắp hương trong điện thờ, rì rầm khấn cầu thần thánh phù hộ
cho đứa bé khôn lớn, rộng dài.
Người
đàn ông tên Lãng là thủ từ của đền Duối. Buổi sáng hôm ấy, khi vào mở cổng đền,
ông phát hiện ra cái gói bọc đứa bé. Chả nghĩ đến việc mở cửa đền nữa, ông Lãng
ôm đứa bé quay về gọi đội trưởng. Anh chàng đội trưởng vừa nghe ông Lãng trình
bày xong, lập tức hối ông quay lại “giữ nguyên hiện trường”, rồi cử người đi gọi
cán bộ xã.
Bà
Gái giao lại mấy chục đồng tiền cho ông Lãng, nhờ ông sửa lễ tạ thánh, rồi ôm đứa
bé cùng tờ biên bản có dấu đỏ của xã, quầy quả đi ra gọi người lái xe ôm chở về
thị trấn. Dân làng nhìn theo người đàn bà xa lạ, không ai nói câu gì cả…
Bà
Gái kể đến đấy thì quay sang nhìn Ngọc. Thấy con nhíu mày, bà liền nói thêm:
-Chả
tìm được người xin cho con bú, mẹ phải vội về pha sữa hộp đổ cho con ăn.
Bất
giác, Ngọc đưa tay mân mê từng lớp vải. Cậu chàng đang cố giấu cái cảm giác cay
cay nơi sống mũi. Chẳng lẽ cậu được sinh ra từ cái tấm vải này ư? Làm gì có
chuyện hoang đường như thế?
Sau
lần ấy, bà Gái không đi buôn chuyến nữa.
Phần vì bận rộn với việc chăm sóc đứa bé, phần vì bà đã tìm được niềm say mê mới.
-Ngày
đặt tên cho con, người thân trong nhà mỗi người mỗi ý, nhưng mẹ quyết đặt tên
con là Ngọc – bà Gái quay hẳn người nhìn đứa con ngồi cúi đầu phía đối diện. Bà
hạ giọng, rủ rỉ với Ngọc như để san sẻ nỗi niềm vẫn chất chứa bấy lâu: -Chả hiểu làm sao, dù không thai nghén, dù
không dứt ruột đẻ ra, mẹ vẫn cứ cảm thấy con như là khúc ruột của mình.
Ngọc
ngẩng lên nhìn mẹ. Những nét già nua đã hằn lên khuôn mặt, mái tóc và dáng vẻ của
bà. Những điều bà Gái nói, Ngọc đã cảm nhận được mỗi ngày. Nhưng còn thoáng
chút băn khoăn thỉnh thoảng vẫn gợn lên trong đầu, có lẽ dịp này là thích hợp
nhất để Ngọc tìm lời giải đáp.
Hình
như đoán nhận được những ý nghĩ của con, bà Gái quay ra chép miệng rồi trầm
ngâm kể tiếp:
-Mẹ
cũng đã mấy lần quay lên Đền Duối. Vừa cầu thánh phù hộ độ trì cho con, vừa hỏi
dò về những người đã đẻ ra con. Mọi người đều nói chả có tung tích gì. Sau mấy
năm, ông thủ từ chết, chả còn mấy người nhớ đến chuyện đứa bé bị bỏ rơi dưới gốc
duối nữa.
Nghe
đến đây, Ngọc đưa tay lên vò đầu, nét thất vọng lộ rõ trên gương mặt chàng trai
mới lớn. Như thông cảm nỗi niềm của con, bà Gái hắng giọng rồi ôn tồn:
-Thôi
con ạ, có lẽ là mệnh giời định thế. Những người đẻ ra con có thể đã chết rồi,
cũng có thể họ buộc phải chối bỏ con. Nhưng còn có mẹ đây, mẹ sẽ không để con
phải chịu thiệt thòi đâu.
-Vâng…
Con cám ơn mẹ…
Lần
đầu tiên trong đời, Ngọc nói những từ này với bà Gái. Lẫn trong đó có cả tiếng
sụt sịt và những giọt nước mắt. Bà Gái đưa chén nước cho Ngọc, rồi tự tay rót
cho mình chén nữa. Uống cạn chén nước, bà lấy bộ tươi tỉnh, quay sang nói với
con:
-Thôi!
Con trai của mẹ lớn rồi, phải cứng rắn lên mới được. Vài ba năm nữa, mẹ già yếu,
con phải gánh vác, quyết định mọi việc đấy.
Nói
đến đây, bà Gái dừng lại. Đợi Ngọc ngẩng lên, bà mới lấy giọng nghiêm nghị, nói
tiếp:
-Nhưng
có một việc con phải nhớ đây. Cái họ mẹ khai sinh cho con là lấy theo họ của bố,
nó chỉ như cái dây gắn kết tình cảm trong nhà và đảm bảo thủ tục giấy tờ cho
con thôi. Nhưng cái họ ấy không phải dòng máu của con. Lớn lên, trong chuyện
tình duyên là con phải thận trọng. Vô tình làm chuyện vợ chồng với người cùng
huyết thống, sẽ mắc tội loạn luân. Xưa nay tội ấy luôn là trọng tội, là thứ
nghiệt trái, bị quả báo đến cả mấy đời đấy con ạ.
Ngọc
nhướn mày ngạc nhiên. Như để làm dịu bớt những lo lắng của bà Gái, và cũng để tự
trấn an mình, Ngọc gượng cười nói:
-Kìa
mẹ, chuyện ấy còn lâu dài mà…
-Mẹ
chỉ nhắc con chuyện này một lần thôi. –Không đợi nghe Ngọc nói thêm, bà Gái nói
tiếp ngay: -Tấm vải này mẹ giao lại, để nó nhắc con nhớ về bổn phận của mình. Nếu
đời mẹ không tìm được họ cho con, con sẽ
phải tiếp tục làm việc ấy, con nhớ nhé…
Bà
Gái nói đến đấy thì kéo bàn tay Ngọc đặt xuống bàn, rồi úp đôi bàn tay mình
lên, ánh mắt rạng ngời, lóng lánh…
-Anh
à…, trải tấm vải xuống đi anh, em quét dọn sạch sẽ rồi…
Giật
mình khi nghe vợ giục, Ngọc hấp tấp đặt tấm vải phủ lên tảng đá phẳng nhẵn dưới
gốc cây duối cổ thụ. Vuốt tấm vải cho thật phẳng phiu, gọn ghẽ, Ngọc mới quay
sang bảo vợ:
-Được
rồi em ạ. Em đặt lễ lên đi…
Hành
trình đi tìm lại họ của Ngọc bắt đầu từ khi vợ chồng anh sinh đứa con đầu. Bồng
đứa con ruột thịt trên tay, lời dặn của bà mẹ nuôi năm nào lại văng vẳng:
-“Tội
loạn luân là thứ tội trọng, là nghiệt trái, quả báo đến mấy đời đấy con ạ”
Đời
Ngọc đã tránh qua được cái tội lỗi ấy một cách nhọc nhằn. Tình yêu thời trai trẻ
của Ngọc chất chứa đầy những rụt rè, nghi ngại. Bao nhiêu những thi vị, lãng mạn
của tình yêu đôi lứa, đã nhạt nhòa theo nỗi niềm trăn trở ấy. Đã có những người
con gái đến với Ngọc, rồi lại đi với nỗi thất vọng không dễ gì chia sẻ.
Dần
dà, Ngọc trở nên dè dặt mỗi khi tiếp xúc với bạn gái. Nhận ra điều ấy, bà Gái bảo
con:
-Chả
nhẽ con xấu hổ vì mẹ không phải mẹ ruột của con sao? Mẹ yêu quý con là vì mẹ hiểu
hoàn cảnh của con. Người đời cũng thế. Không hiểu nhau thì không thể thông cảm với nhau được, nói gì đến
chuyện yêu nhau?
-Hì
hì…-Ngọc bật cười: -Mẹ giỏi thật. Cái gì trong đầu con mẹ cũng biết hết!
Dường
như được tiếp thêm “dũng khí”, Ngọc đã ngỏ lời yêu với người mà anh say đắm,
cùng với lời đề nghị chân thành:
-Em
à! Cái họ của anh là do mẹ anh đặt cho. Thật ra, anh không biết họ mình là gì.
Yêu em mà vẫn lo. Nhỡ đâu mình cùng họ thì sao? Mình sẽ đi xét nghiệm em nhé?
Lời
đề nghị như lạc lõng hoàn toàn trong một buổi tỏ
tình, tạo ra một khoảng im lặng đến thê lương giữa hai người. Khoảng lặng chỉ kết
thúc khi người con gái lên tiếng:
-Anh
sắp xếp đi, rồi báo lại cho em nhé!
Người
con gái ấy là vợ Ngọc bây giờ. Nhìn vợ chồng Ngọc sánh bước trong ngày cưới, bà
Gái chợt thấy con tim mình cũng rưng rưng hạnh phúc.
Đứa
con trai đầu lòng của Ngọc được một tuổi, bà Gái đột ngột phát căn bệnh ung thư
quái ác rồi ra đi. Những ngày cuối trên giường bệnh, bà nắm tay Ngọc, thều thào
trong nước mắt:
-Con
tha lỗi cho mẹ. Chưa tìm được họ cho con, mẹ đi mà vẫn chẳng an lòng
Ngọc
nắm chặt tay mẹ, nghẹn ngào:
-Mẹ
đã cho con cả cuộc đời rồi. Con chỉ mong mẹ an tâm chữa trị cho mau lành bệnh.
Còn việc ấy, con hứa với mẹ, con sẽ làm cho bằng được…
Trong
tay chỉ có tấm vải hoa làm chứng tích, Ngọc đã lần tìm đến đền Duối với những
hi vọng mong manh. Người thủ từ nghe Ngọc kể thì ngạc nhiên lắm:
-Ờ…,
câu chuyện này tôi chưa được nghe nói bao giờ. Để tôi dẫn anh đi hỏi các cụ già
thôn này xem
Gặp
vài người có tuổi, họ nhớ lại:
-Có
một bà buôn xin đứa bé ấy về nuôi. Rồi mấy lần bà ấy về đây dò hỏi. Nhưng đứa
bé ấy là do người nơi khác đem về bỏ ở đền thôi, chả ai ở đây biết tông tích của họ đâu.
Cầm
mảnh vải trên tay, Ngọc tần ngần quay trở về với những trăn trở khôn nguôi. Một
lần Ngọc nói với vợ:
-Việc
tìm họ của anh, không biết hướng nào mà lần bây giờ. Có lẽ phải nhờ tâm linh
thôi em à.
Năm
ấy, vợ chồng Ngọc lại sắm lễ về đền Duối như những năm trước. Họ không biết rằng,
có một người đàn bà trong số những người đi lễ đền, đã nhận ra họ. Đó chính là
người đàn bà tên Chanh, từng là người giúp việc cho gia đình Ngọc.
Cách
đây mấy tháng, bà ta vớ được món hời! Vợ Ngọc đánh rơi cái ví ngay trong sân
nhà mà không biết. Trong cái ví ấy có sợi dây chuyền quý giá, Ngọc đã chắt chiu
để mua tặng vợ. Bà Chanh nhặt được, nghe ngóng thấy vợ chồng nhà chủ không có ý
nghi ngờ, bà ta liền xin phép nghỉ rồi lặn biến về quê. Chỉ đến khi xem lại
“ca-mê-ra” an
ninh, vợ chồng Ngọc mới hiểu ra sự tình. Ngọc bảo vợ:
-Thứ
quy đổi ra tiền được là khó tìm lại lắm. Thôi, “của đi thay người” em ạ!
Vợ
Ngọc ấm ức:
-Mình
tin tưởng, lại đối xử tử tế như thế, mà bà ta còn giở trò trộm cắp. Em phải nói
cho bà ấy biết, cần thì em sẽ truy đến cùng. Không thể để bà ta nhởn nhơ chiếm
đoạt của mình được!
Vợ
Ngọc cắt ảnh từ “ca-mê-ra” rồi đăng cả họ tên, địa chỉ… lên mạng xã hội. Đứa
cháu gái con em cậu bà ta vào mạng, phát hiện ra, liền đem về hỏi. Vừa nhìn thấy
bức ảnh, tim bà ta chợt thót lại. Nhưng rồi nhận ra độ phân giải của “ca-mê-ra”
hơi kém, bức ảnh mờ nhòe không rõ mặt, bà Chanh liền hét toáng lên:
-Tiên
sư con đĩ này, đồ vu oan giá họa, đồ ăn cháo đá bát… Để tao đi tao đập nát mặt
nó ra…
Lấy
uy với mấy đứa cháu thế thôi, chứ với những chiến tích bất hảo trong quá khứ, bà ta thừa biết lúc này cứ là phải giấu mặt
càng kỹ càng tốt.
Thì
thụt bán sợi dây chuyền được một món kha khá, bà Chanh tính chuyện xoay xở lúc
cuối đời. Có lẽ vì những bất an trong tâm trí, nên bà ta đã chọn ngày hôm ấy để
về đền Duối cúng cầu…
Nép
mình vào một rặng hoa, bà Chanh len lét quan sát từng việc làm của vợ chồng Ngọc.
Mắt bà ta hoa lên, đôi chân như muốn sụm xuống, khi Ngọc lần giở tấm vải hoa trải
xuống dưới gốc cây duối. Những hình ảnh của ngày này bốn mươi năm trước, những
tưởng đã tan lãng hết ngay từ ngày ấy, giờ đây lại quá rành rọt, hiện về trước
mắt bà Chanh.
Này
đây cái gian nhà kho nhập nhoạng ánh đèn dầu hỏa…. Cơn đau đẻ nghiền xé cơ thể
và những tiếng thì thào …. Này đây đứa trẻ đỏ hỏn, ngọ nguậy trong tấm vải
hoa…. Bóng tối lờ mờ trong gốc duối… Những bước chân lập bập và tấm lưng gầy của
lão đàn ông, cứ gồng lên theo những nhịp đạp xe trốn chạy…
Dường
như không thể tự kiểm soát được, bà Chanh lũi cũi đi ngược trở ra, vừa đi vừa
thở dốc. Những bước chân vô định đã đưa
bà rẽ vào cái lối nhỏ, dẫn về nơi có gian nhà kho ngày trước…
Một
hôm, đang giữa buổi làm, vợ Ngọc gọi điện đến:
-Anh
Ngọc à, cái bà Chanh ấy chết rồi.
-Sao
em biết?
-Lần
trước em đăng ảnh bà ấy nhặt cái ví của em lên “phây”, hôm nay thấy có cái “com
– men” là: “Bà ấy chết rồi, xuống âm phủ mà ăn vạ đi”.
Buổi
tối, ngồi bên bàn cùng uống nước, Ngọc bảo vợ:
-Anh
sẽ lên chỗ nhà bà Chanh một chuyến. Anh thấy hơi là lạ. Với lại, dù sao bà ấy
cũng là người làm trong nhà mình.
Một
mình lái xe đi, vừa dò đường bằng điện thoại, vừa hỏi thăm, Ngọc đến nhà bà
Chanh khi trời chiều đã xế. Giới thiệu xong, Ngọc được ông anh trai bà Chanh dẫn
vào thắp hương phúng viếng. Nhìn vào tờ lịch dán bên di ảnh, Ngọc thoáng ngạc
nhiên vì nó trùng vào ngày sinh của anh theo âm lịch.
-Cô
ấy là gái duy nhất trong nhà, lại không có chồng con. Tôi là lớn nhất, nên phải
lo hương khói cho cô ấy.
Quay
trở ra, ngồi bên bàn uống nước, anh trai bà Chanh phân trần với Ngọc. Ngọc chăm
chú lắng nghe rồi hỏi lại:
-Bà
ấy bị tai nạn hay sao mà lại mất đột ngột thế ạ?
-Buổi
sáng, cô ấy nói với tôi là đi lễ đền ở mãi tận ngã ba Làng Vầu. Đến chiều thì
nhận được điện báo cô ấy bị cảm, mất rồi. Bệnh viện nói bị nhồi máu cơ tim. Anh
em chúng tôi, ai cũng thấy bất ngờ…
-Bác…
bác ơi. Cái đền ấy có phải là đền Duối không ạ? –Ngọc lắp bắp hỏi lại, khi chợt
nhận ra có nhiều điều trùng hợp.
-Đúng
rồi. Xưa nay ở đây không mấy ai đi lễ đền ấy. Chắc là cô ấy có chút vướng víu ở
đấy, nên mới đi xa thế.
-Không
dám giấu bác –cúi hẳn người về phía người đàn ông trước mặt, Ngọc hấp tấp:
-Cháu là đứa trẻ nhặt ở đền Duối. Cứ đến ngày ấy, cháu lại về đấy cầu mong tìm
lại được cha mẹ đẻ. Ngày bà Chanh mất, cháu cũng có mặt ở đền. Những chuyện này
liệu có gì liên quan đến nhau không hở bác?
-Cậu
nói thật hả? –Anh trai bà Chanh trợn tròn mắt nhìn Ngọc hồi lâu. Rồi ông ta
cũng hấp tấp: -Thế này là liên quan…, liên quan đấy. Ờ…, mà…cậu theo tôi.
Người
đàn ông đứng bật dậy, lật đật đi sang gian nhà đặt bàn thờ vong bà Chanh. Thắp
mấy nén hương cắm trước bài vị, đợi Ngọc bước tới sau lưng, ông ta mới cất giọng
nức nở:
-Ô
hô, Chanh ơi.., có đứa trẻ nhặt ở đền Duối, anh đưa đến trước mặt em đây. Cầu
cho nó là máu mủ của em, để em thanh thản mà đi, Chanh ơi…
Một
làn gió nhẹ ùa vào gian nhà làm mấy ngọn nến cùng đám khói hương lắc lư, chao đảo.
Thoáng chút ớn lạnh chạy qua sống lưng, Ngọc vội chắp tay vái về phía tấm di ảnh
của bà Chanh, rồi quay trở lại ngồi bên chiếc bàn. Ông anh bà Chanh giương mắt
thật to nhìn vào gương mặt người con trai ngồi đối diện rồi hạ giọng:
-Về
tâm linh thì tôi chả biết gì, nhưng em gái tôi có đẻ ra một đứa con trai thật.
Vì không nuôi được, nên mới bỏ ở cái đền Duối ấy…
-Có
phải đứa trẻ ấy bọc trong tấm vải “con công” không hở bác?
-Mấy
anh em tôi không ai biết chuyện này như thế nào. Cô ấy chỉ nói với mẹ tôi. Mẹ
tôi có lần kể cho tôi nghe. Cũng chả được cụ thể ngọn ngành lắm.
-Nếu
có chuyện như vậy, thì cháu đúng là đứa trẻ ấy rồi bác ạ. Mẹ nuôi cháu và dân
làng quanh đền cũng kể lại, nhặt được cháu đúng ngày tháng ấy…
Chiêu
thêm một ngụm nước, ông anh bà Chanh lại chậm rãi nói tiếp:
-Ngày
ấy, cô Chanh làm ở cửa hàng lương thực mãi vùng cao biên giới. Nghe đâu dan díu
với người cùng cơ quan. Được hai, ba năm thì lão này cũng về hưu với vợ con ở tận
Vĩnh Phúc. Cô Chanh không sinh nở được nữa, cứ ở vậy đến bây giờ.
-Bác
ơi…-Ngọc chồm hẳn người trên mặt bàn, giọng thảng thốt: -Bác có địa chỉ của cái
ông ở Vĩnh Phúc không bác?
-Là
cô Chanh nói với mẹ tôi như thế, chứ nào có ai biết gì đâu.
Ngọc
ngẩn ra một lúc rồi đưa tay vò đầu. Lát sau, anh lẩm bẩm như tự nói với mình:
-
Có lẽ lúc trước mẹ cháu đã tìm ra cháu, nên mới về tận Nam Định, rồi vào làm
trong nhà cháu mấy tháng trời. Thế mà cháu đã không nhận ra.
-Không
phải đâu cháu. –ông anh bà Chanh đổi cách xưng hô: -Thời bao cấp, bà này làm cửa
hàng trưởng bán lương thực, sống khá giả lắm. Về sau, cô ấy lại vướng vào vụ vỡ
hụi, lớn lắm! Người thì vào tù, của cải thì bị tịch thu hết. Ra tù được có mấy
tháng, chắc là thấy bí bách, nên mẹ cháu tính chuyện đi làm thêm. Quanh tỉnh
này, tai tiếng đã nhiều, nên cô ấy ngại. Cái chỗ nhà cháu là do mấy đứa trẻ nó
tìm trên mạng ra thôi.
Thì
ra là thế! Cuộc đời bà Chanh thực sự là những cuộc trốn chạy. Trốn chạy khỏi những
tai ương do chính bà tạo ra. Có lẽ vì thế mà suốt mấy chục năm qua, Ngọc và những
người quan tâm đến cuộc đời anh, đã không thể nào tiếp cận được với bà ấy. Và rồi,
có thể bà Chanh đã nhận ra cái hài nhi mà bà vứt bỏ chính là Ngọc. Và như thế, bà ấy đã không thể trốn chạy ở thế giới này
thêm được nữa…
Ngọc
buông sõng đôi tay, đôi vai xuội xuống, nét mặt đầy vẻ khổ đau, thất vọng. Kết
quả của cuộc tìm kiếm suốt bao năm qua đã đến với Ngọc như một cơn gió quẩn. Có
chút mát mẻ, có chút le lói, nhưng vẫn dật dờ bao là ngang trái. Ngọc biết rằng
anh còn phải tìm, phải lý giải, phải gấp gáp với cả một chặng đường trước mắt.
Rồi
như chợt nhớ ra điều quan trọng, anh cầm tay người đàn ông trước mặt, giọng gấp
gáp:
-Cháu
cảm ơn bác đã kể cho cháu nghe về mẹ đẻ của cháu. Nhưng cháu còn nhiều việc cần
làm ngay để tìm ra tông tích của mình. Xong việc cháu sẽ trở về đây gặp bác và
mọi người. Cháu xin phép…
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét