Chuyện thứ hai: Hiệu ứng “ngắt” trong văn viết!
Người ta học nói từ
thuở lên ba, nhưng phải đến khi lên năm, sáu tuổi, thậm chí mãi đến tận sau
này, người ấy mới vọc vạch học viết. Tựu trung lại, bao giờ người ta cũng biết
nói trước khi biết viết. Cái quy luật ấy là phổ biến cho hết thảy mọi kiếp
người.
Đúng lẽ, năng lực nói
và viết phải là đồng điệu. Bởi ở cùng một con người, cùng một mạch tư duy, cùng
một lượng tri thức tích tụ, nói sao thì viết cũng vậy mới là hợp lý.
Thế nhưng, khi lớn lên,
hai cái năng lực ấy đôi khi chẳng có sự liên hệ nào. Có người nói chẳng ai muốn
nghe, nhưng viết ra thì khối người đọc. Lại có người chả viết nổi một câu cho
nó ra hồn, nhưng nói thì cứ như rồng cuốn vậy… Hiện tượng như thế không lạ
trong đời thường! Chưa thể nói ai hơn ai ở đây, bởi phẩm chất con người đòi hỏi
cả hai năng lực ấy. Yếu cái nào cũng đều là khiếm khuyết cả.
Sự khấp khiểng giữa khả
năng nói và viết trước hết có thể giải thích từ yếu tố sinh lý, tức là cái năng
lực bẩm sinh, cái khả năng thiên phú của mỗi con người. Có người sinh ra đã có
tố chất “chậm mồm, chậm miệng”, giọng nói “chối tai”. Nghĩ được đấy, làm được
đấy, nhưng nói cho người khác hiểu và đồng cảm với mình thì khó lắm! Lại có
người chỉ vào cái tuổi học nói đã hoạt ngôn hơn kẻ khác. Lời nói của họ mạch
lạc, truyền cảm, đi vào lòng người và có năng lực thuyết phục cao.
Xét về mặt kỹ thuật,
nói và viết sử dụng các hiệu ứng khác nhau. Kỹ năng hiểu và vận dụng các hiệu
ứng ấy đã tạo ra sự không cân đối giữa hai năng lực biểu đạt ngôn ngữ ngay
trong cùng một con người cụ thể.
Khi nói, người ta cần
đến ngữ điệu “bổng – trầm, khoan – nhặt” để biểu cảm. Chỉ với kỹ thuật này
thôi, con người đã tạo ra được vô vàn các giọng điệu thể hiện các cung bậc cảm
xúc khác nhau. Ngoài ra, kỹ thuật dùng các âm đệm “i-a-ừ-à”, dùng các hành vi
biểu cảm phụ họa bằng nét mặt, chân tay, kể cả là “chém gió”…, đều góp phần tạo
ra các hiệu ứng tác động đến chất lượng lời nói. Sống trên đời, con người ta
đều trải nghiệm, tích lũy được ít nhiều những kỹ thuật biểu cảm này. Vì thế,
trừ những người khuyết tật đặc biệt, ai cũng có thể dùng lời nói để tương tác
với xung quanh. Tuy nhiên, để đạt đến trình độ “nói nghệ thuật” thì không nhiều
người làm được.
Đối với văn viết, hiệu
ứng đạt được hoàn toàn phụ thuộc vào năng lực sử dụng hệ thống các ký tự quy
ước. Muốn biết được hệ thống ấy trước hết phải học, sau đó phải trải nghiệm để
mà tích lũy. Điều này giải thích tại sao không phải ai cũng viết được. Nhất là
viết thành văn, (văn nói chung thôi!), luôn là một việc khó khăn không của
riêng ai.
Có một hiệu ứng trong
văn viết tôi muốn bàn góp ở đây. Đó là kỹ năng ngắt.
Trong khi nói, người ta
cũng dùng kỹ thuật ngắt, vì thế đôi khi cái nhịp ngắt có sự đồng nhất giữa nói
và viết. Tuy nhiên, để ngắt trong văn viết chúng ta phải sử dụng các ký tự quy
ước. Ý nghĩa phổ biến của các ký tự này sẽ tạo ra các hiệu ứng khác nhau, thậm
chí là không mong muốn, trong các bài viết.
Hệ thống dấu câu có ý
nghĩa to lớn đối với văn viết. Trước hết, các dấu câu cho phép ngắt các đoạn
văn, các thành phần trong câu văn, làm cho bài viết có cấu trúc mạch lạc. Khi
sử dụng các dấu câu không hợp lý, bài viết sẽ lẫn lộn lung tung giữa phần đề
với phần thuyết, giữa lời bình của người viết với câu thoại của nhân vật….
Người đọc phải căng ra mà luận mới phân biệt được các tuyến ngôn ngữ khác nhau.
Trên Báo Tân Trào số
424 có đăng bài viết của một tác giả quen thuộc với một đoạn thế này:
Chắc được Bí thư xã báo trước, ông chào chúng tôi như người
trong nhà, tôi xã giao: - Xuống thăm ao cá của bác đây, chủ - khách vui vẻ
cười.
Đọc lần đầu, có vẻ như
cái đoạn “chủ - khách vui vẻ cười” là
một thành phần của câu thoại bắt đầu từ dấu ngang trước đó, nhưng về ý lại chả
ăn nhập tý nào. Tôi cứ tạm luận đoạn ấy là một câu tường thuật của tác giả. Giá
như người viết chỉ đổi vị trí của dấu phẩy và dấu ngang cho nhau, người đọc
đoạn văn này đỡ nhọc nhằn nhiều lắm!
Nhưng cái đoạn viết
này, cũng trong cùng bài viết, tôi không dám luận nữa:
Ông Thanh mời chúng tôi đi thăm hệ thống chăn nuôi thủy sản
của gia đình, ông chỉ tay, ba chiếc ao này có tổng diện tích gần hai nghìn mét
vuông, đã thả các loại cá trắm cỏ, mè, rô phi... những năm gần đây nhờ đi học
tập các điển hình ông nuôi ba ba lấy thịt và cho sinh sản.
Rõ ràng chỉ có nhà văn với
“Ông Thanh” thôi, nhưng sau mệnh đề “ông chỉ tay”, chả còn phân biệt được lời
của ai nữa!
Tôi đã gặp phải khá
nhiều trường hợp như thế. Để hiểu được dụng ý của nhà văn, tôi cứ phải “tua”
ngược xuôi vài ba bận. Mệt lắm!
Cũng với hiệu ứng
“ngắt”, các dấu câu trong văn viết còn tạo ra tiết tấu cho mạch văn, qua đó
người viết biểu lộ, mô tả các trạng thái cảm xúc khác nhau.
Cưới cô bé kia… có lẽ… chỉ được độ… vài tháng thôi thì dần
dần cụ không đi nổi, không bước nổi. (Chuyện cụ ngoại -
truyện ngắn của Nguyễn Đình Lãm – Báo Tân Trào số 443)
Đọc đoạn văn này, không
cần đến mệnh đề dẫn hay thuyết, người đọc đều cảm nhận được cái trạng thái ngần
ngừ, ậm ừ trong câu thoại của nhân vật. Những dấu ba chấm (…) ở đây không đơn
thuần ngắt nhịp đoạn văn, mà thực sự đã tạo nên hiệu ứng nghệ thuật, đưa được
tâm trạng người viết vào lòng người đọc!
Chỉ với hiệu ứng phổ
biến nhất là “ngắt”, với những dấu câu cũng rất phổ biến là chấm (.) và phẩy
(,), nhiều tác giả đã thành công khi sử dụng chúng một cách linh hoạt.
Tôi đọc được đoạn này
trong Báo Tân Trào số 438:
Rừng sâu, muỗi đốt, vắt cắn. Bệnh sốt rét hoành hành. (Thợ rừng – truyện
ngắn của Mai Thái Sơn)
Cả đoạn viết
chỉ dùng một tính từ duy nhất, nhưng nhờ sử dụng các dấu câu phù hợp, người đọc
vẫn cảm nhận được trạng thái chồng chất, ngổn ngang của sự hiểm nguy, gian khó
Rõ ràng, các ký tự dấu câu với hiệu ứng phổ biến của
chúng đã trở thành một bộ phận không thể tách rời trong hệ thống ngôn ngữ viết.
Đồng thời, các dấu câu cũng là một công cụ biểu cảm hết sức quan trong. Nhiều người
viết đã sử dụng các dấu ngắt câu đạt đến trình độ nghệ thuật, tạo ra những hiệu
ứng biểu cảm mà ngôn từ khó mà diễn đạt được. Trong bài thơ “Người đi tìm hình
của nước” của Chế Lan Viên, chỉ trong một câu thơ thôi, nhà thơ cũng đặt một
dấu chấm:
Đất nước đẹp vô cùng . Nhưng Bác phải ra đi
Khi ngâm nga, người ta dễ quên dấu chấm ấy. Nhưng nhìn
vào dòng viết, dấu chấm ấy mang lại sự gợi cảm mạnh mẽ. Người đọc cảm nhận sâu
sắc hơn cái tâm trạng đành đoạn, tiếc nuối, đớn đau của người trai phải xa quê
vì nước.
Để có những hiệu ứng tích cực như thế, đòi hỏi người
viết phải cân nhắc, chọn lọc kỹ lưỡng. Bởi với vai trò là một công cụ biểu cảm,
nếu sử dụng không hợp lý, các dấu ngắt sẽ làm độc giả hiểu không đúng cái ý của
người viết. Và như thế, người viết đã thất bại trong việc chuyển tải nội dung,
cảm xúc đến người đọc.
Có một hiện trạng không hiếm gặp là nói sao viết thế,
các dấu ngắt sử dụng tùy tiện không ăn nhập với văn cảnh. Kiểu viết ấy nó na ná
như câu chuyện hài hước kể về đoạn chép chính tả của học sinh phổ thông: “ con hổ chậm xuống hang”. Đúng như lời
thầy đọc!
Khi người ta kể chuyện bằng miệng, nhờ sử dụng ngữ
điệu hay các hiệu ứng hỗ trợ khác, người nghe có thể hình dung được hai ngôi
chủ ngữ khác nhau trong đoạn văn sau đây:
Có dịp lãnh đạo cấp trên cho chị đi học thêm lớp trung cấp
bảo tàng, khi ra trường cấp trên gợi ý cho chị về công tác tại tỉnh lỵ nhưng
chị vẫn một mực xin về Tân Trào. Chị nói ra miệng. Chị không thể sống xa được
căn lán của Bác Hồ. Chị nói và làm vậy thật. - (Báo Tân Trào số 442)
Nhưng nhìn vào đoạn viết này, người đọc sẽ phải loanh
quanh chán rồi mới mò ra chỗ nào là lời thoại của “chị - nhân vật” , chỗ nào là
lời kể của “tôi – tác giả” .
Lại có một tình trạng là nói kiểu nhát gừng thì viết
cũng “nhát gừng”. Hiệu ứng “nhát gừng” được thực hiện bằng kỹ thuật ngắt xuống
hàng vô tội vạ.
Khi viết thơ, người viết phải ngắt xuống hàng theo ý,
theo vần hoặc theo niêm luật. Trong thể thơ tự do, kỹ thuật ngắt xuống hàng còn
được sử dụng tạo hiệu ứng biểu cảm, mô tả trạng thái cảm xúc của nhân vật hoặc
của chính người viết. Trong một số bài thơ của Hữu Loan, Tố Hữu…, hiệu ứng của
ngắt xuống hàng đã thực sự đóng góp phần không nhỏ vào giá trị nghệ thuật của
tác phẩm.
Trong văn xuôi, nhiều người viết cũng dùng kỹ thuật
ngắt xuống hàng để biểu cảm. Tuy nhiên, để đạt được hiệu ứng tích cực, người
viết phải tùy văn cảnh, chọn ngôn từ hợp
lý rồi mới “ngắt”. Tình trạng ngắt xuống hàng theo kiểu “nhát gừng”, xuống hàng
một cách ngẫu nhiên, thậm chí một cặp liên từ cũng bẻ ra thành hai hàng…, nếu
có đem lại cảm xúc cho người đọc thì chỉ là sự bực bội, khó chịu. Người đọc như
bị xem thường bởi lối hành tự vừa như cẩu thả, vừa như thách đố, lại vừa như
làm hàng trên trang viết.
Từ xưa tới giờ, muốn hoàn thành những sự phức tạp đều
cần phải chỉn chu từng phần nhỏ bé giản đơn trong đó. Những chuyện lạm bàn ở
đây có thể chỉ là những tiểu tiết kỹ thuật thôi, nhưng nó thể hiện sự tôn trọng
độc giả, thể hiện sự thấu đáo của người viết đối với ngòi bút của mình./.