Có một nhà hiền triết đã nói: "Tất cả những gì anh nói ra đều là nói về anh" Ở đây, tất cả những gì tôi viết ra đều là viết về tôi!
Tổng số lượt xem trang
Thứ Ba, 28 tháng 2, 2017
Thứ Hai, 27 tháng 2, 2017
Đây chính là MACKENO
Phần V - Quyển I - Chương XVI
LÀM ANH RỒI LẠI LÀM CHA
Ngay lúc ấy ở trong vườn Luýchxămbua - đã viết bi kịch
thì mắt phải soi khắp - có hai đứa bé nắm tay nhau. Một đứa chừng lên bảy, một đứa lên năm. Vì mưa ướt đầm nên chúng đi lên phía đường có ánh nắng.
Đứa lớn dắt tay đứa bé, cả hai quần áo rách rưới, mặt mày xanh xao. Nom chúng có vẻ như những
con chim rừng. Thằng em bảo: em đói quá.
Thằng lớn tay trái dắt em, tay phải cầm một que củi. Nó đã ý thức che chở cho em.
Trong vườn chỉ có hai anh em chúng, ngoài ra chẳng có ai. Hôm nay lệnh
của sở cảnh sát bắt đóng cửa công viên vì có biến động.
Những đội quân đồn trú trong ấy cũng đã kéo đi từ trước vì nhu cầu chiến sự.
Hai đứa bé này làm thế nào mà lại ở đây? Chúng từ một bót giam quên đóng cửa mà thoát ra chăng? Hay chúng
ở một toán xiếc nào trốn đi, một toán xiếc lưu động đương biểu diễn ở đâu quanh đấy, ở cổng Ăngphe, ở đàn Thiên văn, hay ở ngã tư gần đấy nơi
có cái cổng mang câu: invenerunt parvulum pannis involutum.[283] Có lẽ tối
hôm qua, đến giờ công viên đóng cửa, chúng đã lẩn tránh được cặp mắt của các kiểm soát viên mà ở lại trong vườn rồi ngủ ở một cái chòi nào đó, thứ chòi làm ra để
cho kẻ dạo vườn ngồi đọc báo. Chỉ biết là lúc ấy chúng đang đi lang thang và có vẻ vô sự lắm.
Đi lang thang mà có vẻ vô sự là chết! Đúng thế, hai đứa bé đương ở vào cảnh nguy khốn khôn cùng.
[283] Nguyên văn latinh, nghĩa là: tìm thấy đứa bé vô danh trong tã.
Bạn đọc hãy nhớ lại, hai đứa bé ấy là hai đứa bé mà Gavrốt đã cưu mang. Chúng là con của vợ chồng
Tênácđiê, được mụ Manhông thuê và bảo là con của lão Gilơnócmăng. Giờ đây chúng như những
chiếc lá đã rời khỏi các cành không cội, và bị gió cuốn đi trên mặt đường.
Quần áo của chúng lúc ở với mụ Manhông thì sạch sẽ, mụ Manhông dùng những bộ cánh ấy để quảng cáo với lão Gilơnócmăng. Nhưng quần áo ấy bây giờ đã hóa ra tã nát.
Từ nay chúng nằm trong danh sách những “trẻ bỏ rơi”
mà sở cảnh sát tìm thấy và thu nhặt về, rồi đánh rơi mất, và rồi lại tìm thấy trên các vỉa hè thành phố Pari.
Phải có sự biến động như hôm nay mới trông thấy những đứa trẻ khốn khổ thế này ở trong công viên. Nếu bọn kiểm soát viên trông thấy những
thứ tã rách ấy thì đã tống cổ chúng ra từ đời nào. Trẻ em nghèo không được vào các công viên. Lẽ ra người
ta nghĩ rằng: là trẻ con thì không có quyền chơi
hoa!
Hai đứa trẻ khốn khổ này ở trong vườn Luýchxămbua là vì cổng vườn đóng. Như thế là chúng phạm pháp. Chúng đã lẻn vào vườn từ bao giờ và lại ở trong ấy. Cổng vườn đóng không có nghĩa là kiểm soát viên được
nghỉ việc. Công việc kiểm soát, trên lý thuyết, vẫn
không gián đoạn, nhưng nó nơi lỏng, hoãn đãi ra. Vả lại các ông kiểm soát viên cũng đương băn khoăn về tình hình, không kém gì dân chúng, và chú ý sự việc
bên ngoài hơn là bên trong; các ông không ngó ngàng gì tới
công viên nên không thấy hai đứa trẻ.
Hôm qua trời mưa và sớm hôm nay cũng có mưa chút ít. Nhưng
mưa tháng sáu thì cũng như không mưa.
Một giờ sau cơn mưa giông, người ta hầu như không nhận thấy trời hè vừa ủ dột. Mưa hè, mặt đất cũng chóng khô như đôi má của
em bé.
Gần tiết hạ chí, nắng giữa trưa quả là ráo riết. Nó bám vào mặt đất như để hút tất. Mặt trời hình như khát nước. Một trận mưa rào chỉ như một cốc nước, còn mưa thường thì xuống đất là ráo ngay. Buổi sớm vừa nước chảy dầm dề, buổi chiều đã bụi bay mù mịt.
Không gì đẹp bằng cây lá vừa tắm mưa xong đang được mặt trời lau ráo; lúc ấy trông nó vừa tươi mát, vừa ấm áp. Nước tràn trề dưới gốc, mặt trời lấp lánh trong hoa, vườn cây và đồng
cỏ trở thành những bình hương tỏa muôn mùi thơm ngào ngạt. Hoa cười, chim hót, vạn vật hiến thân cho ta, ai là người không cảm
thấy say sưa một cách dễ chịu? Mùa xuân là một cảnh thiên đường chốc lát: nắng xuân giúp cho người ta kiên tâm chờ đợi
giây phút về trời.
Ở trên đời có những người không đòi hỏi gì hơn thế. Đó là những người khi thấy có trời xanh thì reo: đủ rồi! Họ là những người suy tưởng, mải mê với cảnh
kỳ ảo của vũ trụ, vì sùng bái thiên nhiên mà lãnh đạm với
chuyện thiện ác ở đời, là những người cung chiêm vũ trụ mà hớn hở nhãng quên tình người. Họ
không thể hiểu vì sao khi có thể ngồi dưới bóng cây mà mơ mộng, người ta lại đi lo hạng người này đói, lớp người kia khát, lo người nghèo mùa đông không có áo, em bé xương
lưng bị vẹo nên yếu đuối bủng beo, lo đến ổ rơm, bồ lúa, ngục hình, và bàn về cái áo rách tơi tả của những cô con gái run cầm cập
vì rét. Họ là những người hiền lành mà ghê gớm, những người thỏa màn một cách tàn nhẫn.
Điều rất lạ là cái vô biên đủ làm cho họ vừa lòng. Cái thế giới hữu hạn thiết yếu đối với con người, họ không nghĩ đến, họ không biết đến, mặc dù trong thế giới hữu hạn có sự yêu thương ấp ủ lẫn nhau, mặc dù trong thế giới hữu hạn
có sự tiêu hóa tuyệt vời. Họ không ý thức được cái vô định hình thành do sự hòa hợp vừa thần thánh vừa phàm tục của hữu hạn và vô biên. Miễn họ được đối diện với cảnh bao la vô tận là họ sung sướng. Không bao giờ vui mừng, họ chỉ biết ngây ngất tự quên mình trong cảnh vô cùng tận; đó là mục đích sống của họ.
Lịch sử nhân loại đối với những người này chỉ mới là một bình diện bộ phận của vũ trụ. Cái Tất cả không nằm trong ấy; cái Tất cả thực sự ở ngoài lịch sử nhân loại. Con người chỉ là một chi tiết trong Tất cả,
ích gì mà lo nghĩ về cái chi tiết ấy? Người đau khổ ư? Có lẽ. Nhưng hãy nhìn sao Thiên Ngưu đương
mọc. Người mẹ này cạn sữa, đứa hài nhi kia chỉ còn thoi thóp chút hơi; tôi biết
đâu! Hãy để cho tôi soi kính hiển vi cái lát gỗ
tùng này, nó giống y như một hình hoa kỳ diệu! Anh hãy xem thử có tấm mặt ren nào sánh kịp không?
Những nhà tư tưởng này quên yêu thương.
Tinh
tú ảnh hưởng họ đến nỗi họ không nghe tiếng trẻ kêu khóc. Thượng đế che lấp tâm hồn họ. Họ là một dòng trí tuệ những trí tuệ vừa nhỏ bé
vừa vĩ đại. Horax,[284] Gớt[285] thuộc
dòng họ ấy, có lẽ Phôngten[286] nữa. Những
người ích kỷ lẫm liệt của thế giới vô biên ấy là khán giả bàng quang của những cảnh đau xót ở trên đời; hễ trời đẹp thì họ không nhìn thấy bạo chúa Nêrông, cũng chẳng trông thấy
giàn hỏa thiêu người ở ngay trước mắt; họ tìm những tia sáng phản chiếu trên máy chém trong lúc chém người, họ
không nghe tiếng kêu, tiếng khóc, tiếng rên siết, tiếng chuông giục mõ dồn; đối với họ, trên đời này cái gì cũng tốt cả vì
là có mùa
xuân, cái gì cũng vừa lòng cả miễn là trên đầu còn mây vàng mây tía; họ kiên quyết
vui sướng mãi cho đến khi nào sao thôi sáng và chim hết kêu.
[284] Thi hào cổ La Mã.
[285] Đại thi hào của nước Đức (cuối thế kỷ XVIII và đầu thế kỷ XIX).
[286] Nhà thơ ngụ ngôn của nước Pháp (thế kỷ XVII).
Hạng người ấy là những người tối tăm một cách rạng rỡ. Họ không ngờ rằng họ đáng thương hại. Quả thế thật. Không khóc thì làm sao mà nhìn thấy? Phải
khâm phục họ và ái ngại cho họ, như khi ta khâm phục và ái ngại cho những sinh vật vừa mù vừa sáng, không có hai con mắt dưới
lông mày như chúng ta, mà lại có một đốm sao giữa trán.
Có một đôi người bảo cái chủ nghĩa bàng quan của các nhà tư tưởng ấy là một thứ triết lý siêu đẳng. Đồng ý. Nhưng đó là một trạng thái siêu đẳng bệnh hoạn. Người ta vẫn có thể là một vị thần, nhưng thọt chân, như Vuyncanh.[287] Người ta có thể là
siêu nhân
nhưng vẫn chưa đủ điều kiện làm một con người. Là bao la nhưng vẫn khiếm khuyết, điều ấy không lạ trong vũ trụ. Biết đâu mặt trời không phải là một tên mù?
[287] Một vị thần trong thần thoại cổ Hy Lạp, coi về việc rèn, rất khỏe và thọt chân.
Đăng ký:
Bài đăng (Atom)